Đại biểu Quốc hội trao đổi với phóng viên bên hành lang Quốc hội sáng 3/11 về Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi):
Băn khoăn khi liệt kê các trường hợp thu hồi cụ thể
Quan tâm đến quy định thu hồi đất, đại biểu Mai Thị Phương Hoa (Nam Định) nêu rõ, dự thảo Luật đã quy định 31 khoản về các trường hợp cụ thể và 1 khoản trường hợp khác để Quốc hội quyết định trong trường hợp bổ sung say này, theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, khi rà soát lại 31 khoản cụ thể, lại có “những trường hợp khác”, ví dụ khoản 18 quy định về các trung tâm cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các cơ sở nghiên cứu chuyên ngành khác hoặc khoản 20 về các công trình sự nghiệp khác…
“Những trường hợp khác này không rõ là trường hợp gì và cơ quan nào sẽ quyết định. Bởi khoản 32, Quốc hội sẽ bổ sung các trường hợp thu hồi đất theo trình tự thủ tục rút gọn nếu không thuộc các trường hợp từ khoản 1 đến khoản 31; đề nghị làm rõ những ‘trường hợp khác’ này. Luật phải rõ ràng, khách quan, minh bạch, nhất là trường hợp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”, đại biểu Mai Thị Phương Hoa nhận định.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Tuấn (Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang) đánh giá cao tinh thần cầu thị hoàn thiện dự thảo Luật của cơ quan soạn thảo. Đồng thời, đại biểu đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận, xem xét thông qua dự thảo Luận một cách thận trọng song cũng phải hết sức khẩn trương để giải quyết càng sớm càng tốt những khó khăn, vướng mắc đang đặt ra bởi những bất cập của Luật đất đai hiện hành, đồng thời tránh những khó khăn phát sinh do tâm lý chờ đợi Luật đất đai (sửa đổi) ban hành bảo đảm đồng bộ với Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản và các luật liên quan.
Nêu vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn đòi hỏi cần được giải quyết triệt để hơn thông qua việc sửa luật lần này, đại biểu đề nghị tại Điều 79 quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đã liệt kê 31 trường hợp cụ thể. “Tôi còn băn khoăn vấn đề khi Nhà nước thu hồi đất, người có đất được bồi thường theo bảng giá đất do Nhà nước ban hành, trong khi các doanh nghiệp và người có đất thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án, thì giá đất thường cao hơn, đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dân luôn cảm thấy thiệt thòi, thiếu sự đồng thuận khi Nhà nước thu hồi đất”, đại biểu Trần Văn Tuấn nêu.
Mặt khác đại biểu cho rằng, đối với doanh nghiệp khi triển khai dự án phải thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhiều trường hợp doanh nghiệp phải mất nhiều năm để thỏa thuận. Có trường hợp phải “đi đêm” để thỏa thuận với giá cao hơn, gây thiếu công bằng với số còn lại. Song, doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng “dở khóc dở cười” khi đã thỏa thuận chuyển nhượng được trên 90% diện tích, thậm chí cao hơn, nhưng vẫn không thể triển khai dự án, dù chỉ còn số ít không đồng thuận, làm cho doanh nghiệp phải tăng chi phí, lãng phí nguồn lực, mất cơ hội đầu tư. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng khiếu kiện phức tạp về đất đai ở các địa phương hiện nay (chiếm đến khoảng 75%).
Vì vậy, đại biểu cho rằng, quy định như vậy vẫn chưa thể giải quyết triệt để. Quốc hội cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung điều chỉnh các điều khoản liên quan trong dự thảo luật theo hướng Nhà nước thu hồi đất đối với các trường hợp thực hiện dự án phát triển kinh tế-xã hội, nhất là thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng thực hiện dự án.
Đề nghị làm rõ các trường hợp thu hồi đất tại Điều 79
Đại biểu Trần Văn Lâm, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội phát biểu tranh luận liên quan đến quy định Nhà nước đứng ra thu hồi đất. Đại biểu nêu rõ Nghị quyết 18-NQ/TW nêu ra yêu cầu bảo đảm nguyên tắc thỏa thuận trong thu hồi đất. Do đó cần làm rõ khi nào thỏa thuận và thỏa thuận ra sao. Đại biểu lưu ý cần phân biệt đất thu hồi cho dự án nhà ở thương mại, nếu là đất ở thực hiện hai bên thỏa thuận. Nhưng nếu là đất nông nghiệp thì Nhà nước đứng ra thu hồi và chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển do doanh nghiệp thông qua đấu giá. Đối với đất nông nghiệp để chuyển cho dự án sản xuất nông nghiệp thì thực hiện thỏa thuận.
Tranh luận đối với nội dung liên quan đến thu hồi đất đối với các dự án, đại biểu Trịnh Xuân An (Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai) nêu rõ, Nghị quyết số 18 có nêu tiếp tục cơ chế thỏa thuận trong thu hồi đất, nhưng không yêu cầu tất cả các dự án đều thoả thuận.
Đại biểu cho rằng, một trong những mục tiêu quan trọng nhất là nhằm phát huy nguồn lực đất đai và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển hạ tầng, kinh tế – xã hội.
Các khoản tại Điều 79 đều là lợi ích công, nhưng quan trọng nhất là phải phát huy được nguồn lực của đất đai. Để đất đai trở thành sức mạnh của nền kinh tế thì phải cho phép thu hồi đối với các dự án. Trong đó, phải có quy định cụ thể về quy mô, tính chất của dự án.
“Tôi đề nghị quy định thẳng trong Điều 79 là những dự án có quy mô lớn từ 300 ha trở lên và là những khu đô thị, khu dân cư hiện đại. Có như vậy ta mới có được 1 bộ mặt của một đất nước có những đô thị lớn, những công trình dự án lớn. Tôi nghĩ phải thu hồi thì mới làm được chứ còn nói thỏa thuận nhưng không thể thỏa thuận được thì quy định đó trở thành vô nghĩa. Không thể có 1 dự án hàng trăm ha, nhưng phải đi thỏa thuận với từng hộ dân, từng người dân. Do đó, cần phải quy định cụ thể vào trong dự thảo Luật này”, đại biểu Trịnh Xuân An nêu quan điểm.
Còn đại biểu Huỳnh Thanh Phương (ĐBQH Tây Ninh) đề nghị bổ sung trường hợp thu hồi đất đối với khu vui chơi, giải trí, tổ hợp đa năng bên cạnh kinh doanh thương mại, dịch vụ tại nội dung thu hồi đất phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia cộng đồng tại Điều 79.
Đại biểu nêu quan điểm, khung pháp lý về phát triển cơ sở hạ tầng về du lịch hiện nay chưa đầy đủ, chưa thuận lợi và khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong việc tiếp cận nguồn lực đất đai để phát triển cơ sở hạ tầng du lịch. Phạm vi điều chỉnh của Luật Du lịch không bao gồm việc xây dựng và hình thành, phát triển hạ tầng du lịch và tài nguyên du lịch. Trong khi đó, các lĩnh vực khác được hỗ trợ, tiếp cận được đất đai để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc nhà nước thực hiện thu hồi đất. Do vậy, việc Luật Đất đai không có quy định tiếp cận đất đai đối với tổ chức, cá nhân để phát triển du lịch, dịch vụ sẽ không khuyến khích phát triển hạ tầng du lịch và tạo sự không bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận đất đai.
Theo đại biểu Huỳnh Thanh Phương, việc giao cho tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án nhà ở thương mại hoặc khu đô thị mới kết hợp với kinh doanh thương mại, dịch vụ, khu vui chơi, giải trí, tổ hợp đa năng được coi là các dự án trọng điểm của địa phương sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội của địa phương phát triển. Việc đồng bộ hóa phát triển đô thị kết hợp với du lịch, thương mại và hình thành nên những khu đô thị mới với trung tâm tài chính, thương mại, du lịch thu hút đầu tư quốc tế và khách du lịch trong nước đến với địa phương. Đây cũng là mô hình hiện đang được thực hiện, áp dụng rộng rãi tại một số quốc gia trên thế giới.
“Để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và nâng tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP lên trên 50% thì cần phải đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch. Đây là một trong những nhiệm vụ và giải pháp được đề ra tại Nghị quyết 08/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do vậy, việc quy định thu hồi, phát triển quỹ đất cho hoạt động du lịch là cần thiết trong Luật Đất đai”, đại biểu nêu quan điểm.
Tranh luận về thu hồi đất nhà ở thương mại, đại biểu Nguyễn Quang Huân (Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương) đồng tình với quan điểm cần phải kiểm soát địa tô chênh lệch nhưng cần làm rõ nội dung cần kiểm soát là giá trị thặng dư siêu ngạch – được tạo ra sau khi có đầu tư của nhà đầu tư. Nếu kiểm soát chặt quá thì không khuyến khích và thu hút được nhà đầu tư, không phát triển được kinh tế xã hội. Nhưng nếu buông lỏng thì một số lợi ích siêu ngạch lại phục vụ lợi ích thiểu số.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân cho rằng kiểm soát tốt nhất là thực hiện đấu thầu. Để đấu thầu được thì Nhà nước phải thu hồi đất. Đồng thời đền bù do Nhà nước thực hiện. Khi đó sẽ tiếp cận được giá thị trường. Người sử dụng đất khi được đền bù sẽ được tiệm cận giá thị trường trước khi đầu tư. Như vậy công bằng cho cả nhà đầu tư, người bị thu hồi đất và Nhà nước không bị thất thoát.